Phụ nữ mang thai cần biết chế độ ăn uống này

Chế độ dinh dưỡng của người phụ nữ khi mang thai là một trong những yếu tố quyết định đến sự phát triển của thai nhi, quá trình nuôi con bằng sữa mẹ và sau khi sinh. Thực ăn là dinh dưỡng nuôi dưỡng bào thai với để từ một tế bào thành một cơ thể phát triển toàn diện. Đến khi một em bé mới khỏe mạnh; thông minh chào đời. Tạo đủ sữa cho con bú sau khi sinh xong; trẻ mau lớn và ốm hơn. Vì vậy, bà bầu nên ăn nhiều hơn bình thường và biết cách lựa chọn thực phẩm để có đủ chất dinh dưỡng.

Khi mang thai; nhu cầu năng lượng tăng cao; đặc biệt là những tháng cuối thai kỳ. Nếu phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ bình thường cần 2.200 kcal/ngày thì 350 kcal/ngày (tức là 2.550 kcal/ngày) vào tháng cuối của thai kỳ; tương đương với một bát cơm mỗi ngày.

Đối với mẹ bầu; chế độ dinh dưỡng cần bổ sung đầy đủ chất đạm và chất béo để giúp cơ thể bé hình thành và phát triển. Chất đạm còn cần thiết cho quá trình tạo máu; cho sự phát triển của các cơ quan trong cơ thể mẹ; cho sự phát triển của thai nhi và nhau thai.

Chất đạm cần tăng thêm 15g/ngày so với bình thường. Chất béo nên chiếm 20% tổng năng lượng (khoảng 40g).

Ngoài chất đạm động vật như sữa; trứng (kể cả trứng vịt lộn), thuỷ sản, tôm, cua, cá, ốc…cần chú ý đến chất đạm từ nguồn thức ăn thực vật vừa rẻ, vừa có lượng đạm cao, lại có thêm lượng chất béo tốt như đậu tương; đậu xanh; cá loại đậu khác; vừng, lạc…

 Bổ sung các chất khoáng

Sắt: tình trạng thiếu sắt dẫn đến thiếu máu ở người mẹ ảnh hưởng đến mức tăng cân của mẹ trong thời gian mang thai cũng như cân nặng của trẻ sơ sinh làm tăng nguy cơ bị biến chứng sản khoa. Sắt có nhiều trong thịt; cá, trứng, các loại nhuyễn thể như nghêu, sò; ốc, hến, trong ngũ cốc, đậu đỗ các loại; trong phủ tạng, đặc biệt là tiết. Người mẹ mang thai nên bổ sung 60mg sắt nguyên tố/ngày trong suốt thời gian mang thai đến sau đẻ 1 tháng.

Phụ nữ mang thai cần biết chế độ ăn uống này

Canxi: Canxi tích trữ trong thời gian mang thai tổng số gần 30g tất cả; gần như tương ứng với việc tạo bộ xương thai nhi 3 tháng cuối của thai kỳ. Lượng canxi ăn vào được khuyến cáo là 800- 1000mg mỗi ngày trong suốt thời gian bà mẹ mang thai và cho con bú. Canxi có nhiều trong tôm, cua; cá, sữa và chế phẩm của sữa. Để tăng thêm canxi trong khẩu phần, người mẹ mang thai cần uống thêm sữa giàu canxi và các sản phẩm chế biến từ sữa như sữa chua, phomat; hoặc uống bổ sung viên canxi kèm theo vitamin D.

Kẽm: thiếu kẽm gây nên vô sinh, sẩy thai; sinh non hoặc sinh già tháng, thai chết gần ngày sinh và sinh không bình thường. Nhu cầu kẽm của người mẹ mang thai là 15mg/ngày. Nguồn cung cấp kẽm tốt nhất là thịt; cá; hải sản. Các thức ăn thực vật cũng có kẽm nhưng hàm lượng thấp và hấp thu kém.

Bổ sung các vitamin

Axit Folic:

Thiếu axit folic ở người mẹ có thể dẫn đến thiếu cân ở trẻ sơ sinh. Axit folic có vai trò bảo vệ chống lại những khiếm khuyết của ống thần kinh trong sự thụ thai. Vì thế nhu cầu axit folic ở người mẹ có thai là 300- 400mcg/ngày. Nguồn cung cấp axit folic là rau xanh; trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các thực phẩm có bổ sung axit folic hoặc viên đa vi chất có axit folic.

Vitamin A:

Có vai trò đặc biệt trong hoạt động thị giác; tăng cường miễn dịch trong cơ thể. Thiếu vitamin A sẽ dẫn đến tăng tỷ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn và tử vong; gây khô mắt, có thể dẫn đến mù loà vĩnh viễn nếu không được điều trị. Đối với người phụ nữ có tình trạng dinh dưỡng tốt; không cần bổ sung vitamin A trong suốt thời gian mang thai nếu đảm bảo đủ nhu cầu vitamin A 600mcg/ngày bằng cách thức ăn tự nhiên. Sữa; gan, trứng… là nguồn vitamin A động vật; dễ dàng được hấp thu và dự trữ trong cơ thể.

Tất cả các loại rau xanh; nhất là rau ngót; rau dền, rau muống và các loại củ quả có màu vàng, màu đỏ như cà rốt; xoài, bí đỏ là những thức ăn nhiều caroten, còn gọi là tiền vitamin A; vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A.

Vitamin D:

Phụ nữ mang thai cần biết chế độ ăn uống này

Giúp cho sự hấp thu các khoáng chất như canxi; phospho. Nếu cơ thể thiếu vitamin D; lượng canxi chỉ được hấp thu khoảng 20%; dễ gây các hậu quả như trẻ bị còi xương ngay trong bụng mẹ hay trẻ đẻ ra bình thường nhưng thóp sẽ lâu liền. Những phụ nữ có thai nên có thời gian hoạt động ngoài trời càng nhiều càng tốt. Nên được bổ sung vitamin D 10mcg/ngày; sử dụng các thực phẩm giàu vitamin D như phomát; cá, trứng, sữa, hoặc các thực phẩm có tăng cường vitamin D. Ngoài ra người mẹ có thể phòng còi xương cho con bằng cách uống vitamin D khi thai được 7 tháng: 600.000UI/3 tuần, mỗi tuần 200.000UI

Vitamin B1:

Phụ nữ mang thai cần biết chế độ ăn uống này

 Là yếu tố cần thiết để chuyển hoá gluxit. Các loại hạt cần dự trữ vitamin B1 cho quá trình nảy mầm do đó ngũ cốc và các hạt họ đậu là những nguồn vitamin B1 tốt. Ăn gạo không giã trắng quá, không bị mục; mốc, nhất là ăn nhiều đậu đỗ là cách tốt nhất bổ sung đủ vitamin B1 cho nhu cầu cơ thể (1,1mg/ngày) và chống được bệnh tê phù.

Ngoài ra cũng cần chú ý không dùng các loại chất kích thích như rượu, cà phê, nước chè đặc, thuốc lá…; Giảm ăn các loại gia vị gây kích thích như ớt, hạt tiêu, dấm, tỏi; Nên ăn nhạt (bớt muối), nhất là các bà mẹ bị phù thận, để giảm phù và tránh tai biến khi đẻ; Tránh dùng kháng sinh có thể gây hại cho trẻ như Tetraxyclin làm hỏng răng, Streptomyxin gây ù tai, nghễnh ngãng…

Như vậy, dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai của người mẹ có vai trò then chốt để sinh ra những trẻ sơ sinh mạnh khoẻ và là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của chúng sau này. Hy vọng những điều trên đây sẽ giúp cho những ai sắp làm mẹ có hiểu biết và thực hành dinh dưỡng đúng đắn từ đó tạo điều kiện cho trẻ được sinh ra thuận lợi và phát triển tốt sau đó./.

Nguồn: Trungtamdinhduonghanoi.com